[tintuc]
Dê Boer là một giống dê đã được phát triển ở Nam Phi vào những năm 1900 để sản xuất thịt. Tên của chúng bắt nguồn từ Afrikaans (Hà Lan) từ “Boer”, có nghĩa là người nông dân. Với đặc điểm nổi bật là lớn rất nhanh và cho sản lượng thịt nhiều hơn các loại dê thông thường và thịt chứa nhiều chất béo. Một con dê Boer trưởng thành cân nặng khoảng 100kg và có thể cung cấp hơn 40kg thịt dê, thậm chí có thể đạt cân nặng 110kg.
Nguồn Gốc và Đặc Điểm
Dê Boer có thể được lai tạo với dê bản địa (họ có nguồn gốc từ Nam Phi) của Namaqua Bushmen và Fooku bộ lạc, với một số băng qua Ấn Độ và châu Âu là có thể. Dê Boer đã được chọn để thịt chứ không phải là sữa sản xuất; do nhân giống chọn lọc và cải tiến, con dê Boer có tốc độ tăng trưởng nhanh và chất lượng thịt tuyệt vời, làm cho nó trở thành một trong những giống phổ biến nhất của dê thịt trên thế giới. Dê Boer có một sức đề kháng cao với bệnh tật và thích nghi tốt với các sa mạc bán khô, nóng. Hoa Kỳ sản xuất được tập trung ở phía Tây Texas , đặc biệt là trong và xung quanh San Angelo và Menard. Các con giống ban đầu từ Mỹ đến từ New Zealand. Chỉ sau này là họ nhập khẩu trực tiếp từ Nam Phi.
Dê Boer thường có thân màu trắng và đầu màu nâu đặc trưng. Một số dê Boer có thể hoàn toàn màu nâu hoặc màu trắng hoặc sơn. Giống như những con dê Nubian, dê boer sở hữu râu dài, tai rủ xuống. Nó được ghi nhận là ngoan ngoãn, phát triển nhanh chóng, và có tỷ lệ sinh cao. Theo số liệu được báo cáo dê boer có kỹ năng làm mẹ cao so với khác. Dê Boer có xu hướng tăng cân nhanh. Các thị trường chính cho giết mổ dê là 22-36 kg; dê boer nhỏ phải đạt kích thước thương phẩm ở tuổi cai sữa. Những dê boer con của một con giống chất lượng sẽ phát triển nhanh chóng đã được chứng minh có thể nặng 36kg trong 90 ngày, trong khi con của một đực giống kém chất lượng có thể nặng chỉ 15 kg trong 90 ngày. Một boer đực giống có chất lượng trung bình sẽ ít tốn kém để mua. Tuy nhiên, nó có thể làm suy yếu đáng kể dài hạn của một hoạt động sinh lời. Do vậy, khi đã đầu tư mua boer đực giống để cải tạo chất lượng bầy đàn thì nên chọn con boer đực giống chất lượng để mua. Phí ban đầu tuy cao nhưng về sau sẽ cải thiện thu nhập đáng kể.
Đặc điểm của giống dê boer hiện có ở Việt Nạm : Giống dê có hai sắc lông đen trắng trên mình, có màu lông nâu, có vòng trắng quanh cổ. Lông đen phủ hết trọn phần cổ, lưng, hai bên hông và phần trên đuôi. Còn lông trắng ở mặt dưới của tai, ở hai sọc trên mặt chạy song song từ đầu đến mũi, phần bụng, và bốn khuỷu chân trở xuống. Với sắc lông này trông con dê giống con bò Hà Lan.
Trọng lượng con cái trưởng thành nặng từ 90–100 kg/con, con đực 100–160 kg/con. Dê Boer có cơ bắp rất đầy đặn, nhất là phần ngực, đùi, sinh trưởng nhanh dê cho nhiều sữa, nhưng đa số đều có chu kỳ sữa ngắn ngày. Do đó, nhiều người cho giống dê này lai với dê Bách Thảo để năng suất sữa được cao hơn và chu kỳ sữa được dài hơn. Chúng có thân màu trắng có vành nâu đỏ hoặc đen quanh cổ, hoặc màu đỏ (Boer Ðỏ). Trọng lượng lúc trưởng thành dê đực từ 80 – 100 kg, dê cái từ 70 – 80 kg. Tăng trưởng bình quân từ 150 – 200 gr/con/ ngày. Chất lượng thịt tốt, đây là loại thịt dày, cholesterol thấp, protêin cao, thịt mềm, thơm.
Dê Boer tăng trưởng nhanh, chúng dễ nuôi, mắn đẻ, nuôi con giỏi. Chúng động đực đầu tiên từ 5-7 tháng tuổi. Tuổi phối giống lần đầu thì dê cái được 15 tháng tuổi đạt trọng lượng từ 30–40 kg, dê đực 45–60 kg. Chu kì động đực từ 18-21 ngày. Thời gian mang thai từ 145-155 ngày. Dê cái đẻ lần đầu thường là một con, lần 2,3 có thể là 2-3 con/lần đẻ (15 – 20% đàn). Trọng lượng sơ sinh từ 2-3,5 kg. Bình quân 1 dê được quản lý phối giống 25-30 cái.
Chúng là giống ăn tạp, dễ nuôi, khả năng kháng bệnh cao sinh sản nhanh. Bên cạnh đặc tính dễ dãi trong ăn uống và thuận lợi trong dọn dẹp vệ sinh chuồng trại, thì chúng còn là con vật dễ nhân đàn. Chúng là con vật dễ nuôi, chuồng trại đơn giản nên mô hình này phù hợp với những hộ ít vốn. Chúng ít bị ốm sức đề kháng cao chăn thả tự kiếm cỏ ngoài đồng không cần thức ăn tinh bổ sung nên chăn nuôi không vất vả và tốn kém, tuy vậy chúng cũng khá nhạy cảm, dễ bị bệnh, nên khi nuôi cũng cần phải thường xuyên quét dọn chuồng trại, phát hiện, cách ly và chữa trị kịp thời những con dê bị bệnh để tránh lây nhiễm, gây thiệt hại cho cả đàn.
Chúng ăn thức ăn chủ yếu từ cây cỏ tự nhiên. Thức ăn cho chúng rất đa dạng gồm các loại cây bụi, cỏ trồng, cỏ mọc tự nhiên, các loại lá cây như so đũa, mít, chuối,sầu đâu, keo dậu, dâm bụt, phế phẩm nông nghiệp như rơm, thân cây ngô, ngọn mía, dây đậu, các loại củ quả như khoai lang, bí đỏ, chuối, thức ăn tinh, thức ăn khoáng. Thức ăn thô xanh thường chiếm khoảng 55 – 70% khẩu phần ăn của dê. Bên cạnh đó còn có các loại lá gòn, mít, cỏ, rau lan.
Cách Chăm Sóc Dê Boer
Thức ăn cho chúng phải khô ráo, không hôi mốc, sạch không lẫn đất cát; phải để nước sạch trong chuồng để dê uống khi khát. Có thể nuôi theo 3 kiểu: chăn dắt (quảng canh), cột buộc ở khu vực quanh nhà, đồi gò hoặc nuôi nhốt kết hợp với chăn thả (bán thâm canh) và nuôi nhốt cố định tại chuồng (thâm canh).
Việc áp dụng kỹ thuật vào chăn nuôi rất quan trọng. Người nuôi dê phải biết áp dụng kỹ thuật từ khâu làm chuồng trại cho đến việc theo dõi, quản lý đàn dê. Vì là loại động vật không ưa độ ẩm cao nên chuồng trại cho dê cần phải đảm bảo sạch sẽ, thông thoáng, tránh nắng nóng và ẩm ướt. Khi làm chuồng, tùy theo đặc điểm từng vùng, từng nhà cụ thể mà xác định vị trí và hướng chuồng thích hợp để tận dụng yếu tố thuận lợi và hạn chế tối đa các yếu tố bất lợi của thời tiết đối với dê.
Cần tránh cho dê giao phối đồng chủng để bảo đảm năng suất, chất lượng con giống. Khi dê đực con nuôi thời gian khoảng 4 tháng tuổi ra nuôi riêng với dê cái. Đối với dê cái phối giống lần đầu ở thời điểm nuôi từ 7 – 8 tháng tuổi. Không dùng dê đực giống là bố, dê cái là con hoặc cháu, đực giống là anh, dê cái là em cho phối giống với nhau để tránh hiện tượng trùng huyết. Trong thời gian dê có chửa tránh dồn đuổi, đánh đập và không nhốt chung với dê đực để tránh bị dê đực nhảy, dễ sảy thai.
Đối với dê chửa lần đầu cần xoa bóp nhẹ đầu vú để kích thích tuyến sữa phát triển, kích thích tuyến sữa phát triển và tập cho dê quen dần với việc vắt sữa sau này. Đối với dê cái đã đẻ nhiều lứa, đang cho con bú hoặc đang vắt sữa cho dê bằng cách giảm dần số lần cho con bú hoặc vắt sữa từ một lần. Để đảm bảo cho đàn dê cho năng suất sữa cao thì chế độ dinh dưỡng phải đảm bảo hơn, khẩu phần giàu chất dinh dưỡng hơn. Chế độ nuôi dưỡng tốt phải đảm bảo cho dê mẹ phát triển bình thường khi có chửa, cho nhiều sữa trong thời kỳ cho sữa. Thừa thức ăn tinh hỗn hợp thì không chỉ chất lượng sữa giảm, chi phí thức ăn tăng. Chế độ nuôi dưỡng dê sữa phải căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng.
Các Bệnh Thường Gặp Ở Dê Boer
Do dê ăn khẩu phần thiếu hay mất cân bằng canxi và phốtpho trong thời gian dài nên bị hội chứng rối loạn thần kinh, gây ra bệnh sốt sữa (Milk fever). Bệnh này thường xảy ra trong giai đoạn dê đang tiết sữa hoặc cạn sữa thời gian mà dê cần rất nhiều canxi và phốtpho so với bình thường, song không được đáp ứng đủ, do đó dê phải sử dụng nguồn canxi từ máu. Khi lượng canxi trong máu giảm dưới 6 mg/100ml thì dê bị rối loạn thần kinh. Dê sữa có năng suất cao thường bị bệnh này. Lúc đầu dê giảm ăn, suy nhược cơ thể, đi đứng khó khăn, sau đó dựa vào tường rồi nằm nghiêng một bên, co giật và tê liệt, không đứng dậy được. Thân nhiệt hạ xuống khoảng 38 độ C, mạch đập nhanh hơn bình thường. Không điều trị kịp thời, dê có thể tử vong.
Bệnh ỉa chảy do vi trùng hoặc thức ăn, nước uống bẩn, lạnh, thiu, mốc. Dê bị bệnh phân nát đến lỏng. Khi dê ỉa chảy, nên để nước uống và tảng liếm thường xuyên trong cũi lồng chuồng. Ỉa chảy làm cho cơ thể mất nước, mất dịch thể và khoáng nghiêm trọng. Nếu ỉa chảy nặng và kéo dài (vài ngày) phải cung cấp dung dịch chống mất nước. Nếu không can thiệp, dê sẽ mất nước, mất cân bằng điện giải trong cơ thể, dê trở nên yếu và có thể bị chết. Bệnh chướng bụng đầy hơi do thức ăn thiu, mốc hoặc quá giàu đạm và thay đổi đột ngột. Dê bệnh thành bụng bên trái căng, chướng to, gõ tiếng bùm bụp, con vật khó thở sùi bọt mép.
Lai Tạo Giống Dê Boer
Trong khi thuần Bucks thường được ưa thích dành cho mục đích sinh sản, người ta thường sử dụng lai tạo cho sản xuất nhỏ, với con cái quả là 7/8 hoặc nhiều Boer. Lai thường gặp là Boer x Tây Ban Nha dê, Boer x Angora dê , Boer x Kiko dê, và Boer xdê Nubian , Boer x Sirohi, Boer x Osmanabadi, và Boer x Jamnapari.
Tỷ lệ phần trăm Dê Boer là rất phổ biến trong các đàn thịt thương mại, và với những người chỉ là bắt đầu trong kinh doanh dê Boer do dễ mua và khả năng chi trả.
Qua thời gian, tỷ lệ có thể được nhân giống đến tình trạng thuần chủng Mỹ. Một thuần Mỹ là một con dê Boer 15 / 16ths Boer máu (F4) và 31 / 32nds máu (F5) cho Bucks Boer. Bucks phải là một thế hệ cao hơn so với làm để đạt được trạng thái này vì họ có khả năng lây nhiễm nguồn gen của họ nhiều hơn so với bất kỳ nai đơn Boer chăn nuôi; một mức độ cao hơn của Boer máu làm giảm cơ hội của những phẩm chất giống khác ở con. Mặc dù purebreds Mỹ không bao giờ có thể được đăng ký như Fullblood (FB), nhiều hộ nuôi vẫn sẽ sử dụng một buck thuần Mỹ tốt với kết quả xuất sắc.
Lưu ý: Các ‘F’ định là viết tắt thường được sử dụng để chỉ ra tỷ lệ phần trăm của máu tinh khiết (Boer trong trường hợp này), kết quả lai của một buck Boer thuần chủng với không giống khác:
F1: 1/2 Boer máu (thuần chủng buck của đực giống, giống chó khác nai)
F2: 3/4 Boer máu (thuần chủng buck của đực giống, F1 nai)
F3: 7/8 Boer máu (thuần chủng buck của đực giống, F2 nai)
F4: 15/16 Boer máu (thuần chủng buck của đực giống, F3 nai)
F5: 31/32 Boer máu (thuần chủng buck của đực giống, F4 nai) => Dê Boer Mỹ.
Dê Boer được lai tạo ở Việt Nam : Do đặc điểm khí hậu khác biệt và quá trình thích nghi dần của các chuẩn loại nên cách lai tạo, thuần chuẩn giống cũng có phần khác nhau. Qua đó dê Boer lần đầu tiên nhập vào Úc trong những năm 80, Boer lại là Boer thuần lai với dê bụi của Úc. Ở Việt Nam, Giống dê này được nuôi từng bầy đàn lớn ở Ninh Thuận và nhiều tỉnh dọc các tỉnh duyên hải miền trung, nên còn gọi chúng bằng một tên khác là dê Phan Rang. Ở Việt Nam có giống lai giữa dê Boer với dê Bách Thảo. Dê lai F1 tạo ra bằng cách cho đực giống phối trực tiếp với dê cái, theo sơ đồ:
Boer (OO) x Bách thảo (BB) = F1 OB
Bách thảo x Bách thảo (BB) = BB
Nhóm dê lai OB có 92,50% số con có màu sắc lông hoàn toàn giống bố tức là phần thân có màu lông trắng, phần đầu và cổ có màu lông nâu hoặc đen; 7,00% có màu sắc lông giống màu lông của mẹ và 0,50% còn lại có màu lang trắng đen không giống bố, mẹ. Giống Bách thảo có 100% số con sinh ra cùng thời gian với dê lai OB có màu sắc lông hoàn toàn giống bố mẹ (màu lông đen, mặt có sọc trắng và dưới bụng có màu lông trắng…).
Do đặc tính hiền lành nên một số quốc gia lại tạo giống boer thuần sang một số giống boer làm thú cưng trong gia đình. Tuy nhiên để được chọn làm thú cưng thì chú dê boer cũng trải qua nhiều kỳ kiểm tra và phải có giấy chứng nhận.
Kết Luận và Lưu Ý: Qua bài viết chúng ta đã phần nào hiểu sâu hơn, được trang bị kiến thức kỹ hơn về giống dê boer, bà con nên tận dụng kiến thức (chọn giống, đặc điểm sinh sống, lai tạo, thức ăn, các bệnh thường gặp) mình có được để có những quyết định đúng đắn trong việc phát triển đàn dê cũng như phát triển kinh tế gia đình. Tùy vùng miền, khí hậu, nguồn thức ăn thích hợp mà chọn giống dê cho thích hợp. Không nhất thiết phải chọn giống dê boer để phát triển kinh tế gia đình vì có thể giống dê không thích hợp với khí hậu vùng miền của mình. Nhưng nếu có thể thì tận dụng thêm kiến thức thuần chuẩn, lai tạo giống boer tốt với các giống dê hiện có ở địa phương để phát triển đàn dê sau này tốt hơn, đem lại lợi nhuận kinh tế về sau tốt hơn. Dê Boer vẫn là giống dê được các nước trên thế giới chọn làm giống dê siêu thịt và cũng đang là hướng đi mới cho ngành chăn nuôi dê thịt tại Việt Nam.
[/tintuc]
Dê Boer là một giống dê đã được phát triển ở Nam Phi vào những năm 1900 để sản xuất thịt. Tên của chúng bắt nguồn từ Afrikaans (Hà Lan) từ “Boer”, có nghĩa là người nông dân. Với đặc điểm nổi bật là lớn rất nhanh và cho sản lượng thịt nhiều hơn các loại dê thông thường và thịt chứa nhiều chất béo. Một con dê Boer trưởng thành cân nặng khoảng 100kg và có thể cung cấp hơn 40kg thịt dê, thậm chí có thể đạt cân nặng 110kg.
![]() |
Dê Boer |
Dê Boer có thể được lai tạo với dê bản địa (họ có nguồn gốc từ Nam Phi) của Namaqua Bushmen và Fooku bộ lạc, với một số băng qua Ấn Độ và châu Âu là có thể. Dê Boer đã được chọn để thịt chứ không phải là sữa sản xuất; do nhân giống chọn lọc và cải tiến, con dê Boer có tốc độ tăng trưởng nhanh và chất lượng thịt tuyệt vời, làm cho nó trở thành một trong những giống phổ biến nhất của dê thịt trên thế giới. Dê Boer có một sức đề kháng cao với bệnh tật và thích nghi tốt với các sa mạc bán khô, nóng. Hoa Kỳ sản xuất được tập trung ở phía Tây Texas , đặc biệt là trong và xung quanh San Angelo và Menard. Các con giống ban đầu từ Mỹ đến từ New Zealand. Chỉ sau này là họ nhập khẩu trực tiếp từ Nam Phi.
Dê Boer thường có thân màu trắng và đầu màu nâu đặc trưng. Một số dê Boer có thể hoàn toàn màu nâu hoặc màu trắng hoặc sơn. Giống như những con dê Nubian, dê boer sở hữu râu dài, tai rủ xuống. Nó được ghi nhận là ngoan ngoãn, phát triển nhanh chóng, và có tỷ lệ sinh cao. Theo số liệu được báo cáo dê boer có kỹ năng làm mẹ cao so với khác. Dê Boer có xu hướng tăng cân nhanh. Các thị trường chính cho giết mổ dê là 22-36 kg; dê boer nhỏ phải đạt kích thước thương phẩm ở tuổi cai sữa. Những dê boer con của một con giống chất lượng sẽ phát triển nhanh chóng đã được chứng minh có thể nặng 36kg trong 90 ngày, trong khi con của một đực giống kém chất lượng có thể nặng chỉ 15 kg trong 90 ngày. Một boer đực giống có chất lượng trung bình sẽ ít tốn kém để mua. Tuy nhiên, nó có thể làm suy yếu đáng kể dài hạn của một hoạt động sinh lời. Do vậy, khi đã đầu tư mua boer đực giống để cải tạo chất lượng bầy đàn thì nên chọn con boer đực giống chất lượng để mua. Phí ban đầu tuy cao nhưng về sau sẽ cải thiện thu nhập đáng kể.
![]() |
Dê Boer |
Trọng lượng con cái trưởng thành nặng từ 90–100 kg/con, con đực 100–160 kg/con. Dê Boer có cơ bắp rất đầy đặn, nhất là phần ngực, đùi, sinh trưởng nhanh dê cho nhiều sữa, nhưng đa số đều có chu kỳ sữa ngắn ngày. Do đó, nhiều người cho giống dê này lai với dê Bách Thảo để năng suất sữa được cao hơn và chu kỳ sữa được dài hơn. Chúng có thân màu trắng có vành nâu đỏ hoặc đen quanh cổ, hoặc màu đỏ (Boer Ðỏ). Trọng lượng lúc trưởng thành dê đực từ 80 – 100 kg, dê cái từ 70 – 80 kg. Tăng trưởng bình quân từ 150 – 200 gr/con/ ngày. Chất lượng thịt tốt, đây là loại thịt dày, cholesterol thấp, protêin cao, thịt mềm, thơm.
Dê Boer tăng trưởng nhanh, chúng dễ nuôi, mắn đẻ, nuôi con giỏi. Chúng động đực đầu tiên từ 5-7 tháng tuổi. Tuổi phối giống lần đầu thì dê cái được 15 tháng tuổi đạt trọng lượng từ 30–40 kg, dê đực 45–60 kg. Chu kì động đực từ 18-21 ngày. Thời gian mang thai từ 145-155 ngày. Dê cái đẻ lần đầu thường là một con, lần 2,3 có thể là 2-3 con/lần đẻ (15 – 20% đàn). Trọng lượng sơ sinh từ 2-3,5 kg. Bình quân 1 dê được quản lý phối giống 25-30 cái.
Chúng là giống ăn tạp, dễ nuôi, khả năng kháng bệnh cao sinh sản nhanh. Bên cạnh đặc tính dễ dãi trong ăn uống và thuận lợi trong dọn dẹp vệ sinh chuồng trại, thì chúng còn là con vật dễ nhân đàn. Chúng là con vật dễ nuôi, chuồng trại đơn giản nên mô hình này phù hợp với những hộ ít vốn. Chúng ít bị ốm sức đề kháng cao chăn thả tự kiếm cỏ ngoài đồng không cần thức ăn tinh bổ sung nên chăn nuôi không vất vả và tốn kém, tuy vậy chúng cũng khá nhạy cảm, dễ bị bệnh, nên khi nuôi cũng cần phải thường xuyên quét dọn chuồng trại, phát hiện, cách ly và chữa trị kịp thời những con dê bị bệnh để tránh lây nhiễm, gây thiệt hại cho cả đàn.
Chúng ăn thức ăn chủ yếu từ cây cỏ tự nhiên. Thức ăn cho chúng rất đa dạng gồm các loại cây bụi, cỏ trồng, cỏ mọc tự nhiên, các loại lá cây như so đũa, mít, chuối,sầu đâu, keo dậu, dâm bụt, phế phẩm nông nghiệp như rơm, thân cây ngô, ngọn mía, dây đậu, các loại củ quả như khoai lang, bí đỏ, chuối, thức ăn tinh, thức ăn khoáng. Thức ăn thô xanh thường chiếm khoảng 55 – 70% khẩu phần ăn của dê. Bên cạnh đó còn có các loại lá gòn, mít, cỏ, rau lan.
Cách Chăm Sóc Dê Boer
Thức ăn cho chúng phải khô ráo, không hôi mốc, sạch không lẫn đất cát; phải để nước sạch trong chuồng để dê uống khi khát. Có thể nuôi theo 3 kiểu: chăn dắt (quảng canh), cột buộc ở khu vực quanh nhà, đồi gò hoặc nuôi nhốt kết hợp với chăn thả (bán thâm canh) và nuôi nhốt cố định tại chuồng (thâm canh).
![]() |
Dê Boer |
Cần tránh cho dê giao phối đồng chủng để bảo đảm năng suất, chất lượng con giống. Khi dê đực con nuôi thời gian khoảng 4 tháng tuổi ra nuôi riêng với dê cái. Đối với dê cái phối giống lần đầu ở thời điểm nuôi từ 7 – 8 tháng tuổi. Không dùng dê đực giống là bố, dê cái là con hoặc cháu, đực giống là anh, dê cái là em cho phối giống với nhau để tránh hiện tượng trùng huyết. Trong thời gian dê có chửa tránh dồn đuổi, đánh đập và không nhốt chung với dê đực để tránh bị dê đực nhảy, dễ sảy thai.
Đối với dê chửa lần đầu cần xoa bóp nhẹ đầu vú để kích thích tuyến sữa phát triển, kích thích tuyến sữa phát triển và tập cho dê quen dần với việc vắt sữa sau này. Đối với dê cái đã đẻ nhiều lứa, đang cho con bú hoặc đang vắt sữa cho dê bằng cách giảm dần số lần cho con bú hoặc vắt sữa từ một lần. Để đảm bảo cho đàn dê cho năng suất sữa cao thì chế độ dinh dưỡng phải đảm bảo hơn, khẩu phần giàu chất dinh dưỡng hơn. Chế độ nuôi dưỡng tốt phải đảm bảo cho dê mẹ phát triển bình thường khi có chửa, cho nhiều sữa trong thời kỳ cho sữa. Thừa thức ăn tinh hỗn hợp thì không chỉ chất lượng sữa giảm, chi phí thức ăn tăng. Chế độ nuôi dưỡng dê sữa phải căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng.
Các Bệnh Thường Gặp Ở Dê Boer
![]() |
Dê Boer |
Bệnh ỉa chảy do vi trùng hoặc thức ăn, nước uống bẩn, lạnh, thiu, mốc. Dê bị bệnh phân nát đến lỏng. Khi dê ỉa chảy, nên để nước uống và tảng liếm thường xuyên trong cũi lồng chuồng. Ỉa chảy làm cho cơ thể mất nước, mất dịch thể và khoáng nghiêm trọng. Nếu ỉa chảy nặng và kéo dài (vài ngày) phải cung cấp dung dịch chống mất nước. Nếu không can thiệp, dê sẽ mất nước, mất cân bằng điện giải trong cơ thể, dê trở nên yếu và có thể bị chết. Bệnh chướng bụng đầy hơi do thức ăn thiu, mốc hoặc quá giàu đạm và thay đổi đột ngột. Dê bệnh thành bụng bên trái căng, chướng to, gõ tiếng bùm bụp, con vật khó thở sùi bọt mép.
Lai Tạo Giống Dê Boer
Trong khi thuần Bucks thường được ưa thích dành cho mục đích sinh sản, người ta thường sử dụng lai tạo cho sản xuất nhỏ, với con cái quả là 7/8 hoặc nhiều Boer. Lai thường gặp là Boer x Tây Ban Nha dê, Boer x Angora dê , Boer x Kiko dê, và Boer xdê Nubian , Boer x Sirohi, Boer x Osmanabadi, và Boer x Jamnapari.
Tỷ lệ phần trăm Dê Boer là rất phổ biến trong các đàn thịt thương mại, và với những người chỉ là bắt đầu trong kinh doanh dê Boer do dễ mua và khả năng chi trả.
Qua thời gian, tỷ lệ có thể được nhân giống đến tình trạng thuần chủng Mỹ. Một thuần Mỹ là một con dê Boer 15 / 16ths Boer máu (F4) và 31 / 32nds máu (F5) cho Bucks Boer. Bucks phải là một thế hệ cao hơn so với làm để đạt được trạng thái này vì họ có khả năng lây nhiễm nguồn gen của họ nhiều hơn so với bất kỳ nai đơn Boer chăn nuôi; một mức độ cao hơn của Boer máu làm giảm cơ hội của những phẩm chất giống khác ở con. Mặc dù purebreds Mỹ không bao giờ có thể được đăng ký như Fullblood (FB), nhiều hộ nuôi vẫn sẽ sử dụng một buck thuần Mỹ tốt với kết quả xuất sắc.
![]() |
Dê Boer |
F1: 1/2 Boer máu (thuần chủng buck của đực giống, giống chó khác nai)
F2: 3/4 Boer máu (thuần chủng buck của đực giống, F1 nai)
F3: 7/8 Boer máu (thuần chủng buck của đực giống, F2 nai)
F4: 15/16 Boer máu (thuần chủng buck của đực giống, F3 nai)
F5: 31/32 Boer máu (thuần chủng buck của đực giống, F4 nai) => Dê Boer Mỹ.
Dê Boer được lai tạo ở Việt Nam : Do đặc điểm khí hậu khác biệt và quá trình thích nghi dần của các chuẩn loại nên cách lai tạo, thuần chuẩn giống cũng có phần khác nhau. Qua đó dê Boer lần đầu tiên nhập vào Úc trong những năm 80, Boer lại là Boer thuần lai với dê bụi của Úc. Ở Việt Nam, Giống dê này được nuôi từng bầy đàn lớn ở Ninh Thuận và nhiều tỉnh dọc các tỉnh duyên hải miền trung, nên còn gọi chúng bằng một tên khác là dê Phan Rang. Ở Việt Nam có giống lai giữa dê Boer với dê Bách Thảo. Dê lai F1 tạo ra bằng cách cho đực giống phối trực tiếp với dê cái, theo sơ đồ:
Boer (OO) x Bách thảo (BB) = F1 OB
Bách thảo x Bách thảo (BB) = BB
Nhóm dê lai OB có 92,50% số con có màu sắc lông hoàn toàn giống bố tức là phần thân có màu lông trắng, phần đầu và cổ có màu lông nâu hoặc đen; 7,00% có màu sắc lông giống màu lông của mẹ và 0,50% còn lại có màu lang trắng đen không giống bố, mẹ. Giống Bách thảo có 100% số con sinh ra cùng thời gian với dê lai OB có màu sắc lông hoàn toàn giống bố mẹ (màu lông đen, mặt có sọc trắng và dưới bụng có màu lông trắng…).
Do đặc tính hiền lành nên một số quốc gia lại tạo giống boer thuần sang một số giống boer làm thú cưng trong gia đình. Tuy nhiên để được chọn làm thú cưng thì chú dê boer cũng trải qua nhiều kỳ kiểm tra và phải có giấy chứng nhận.
Kết Luận và Lưu Ý: Qua bài viết chúng ta đã phần nào hiểu sâu hơn, được trang bị kiến thức kỹ hơn về giống dê boer, bà con nên tận dụng kiến thức (chọn giống, đặc điểm sinh sống, lai tạo, thức ăn, các bệnh thường gặp) mình có được để có những quyết định đúng đắn trong việc phát triển đàn dê cũng như phát triển kinh tế gia đình. Tùy vùng miền, khí hậu, nguồn thức ăn thích hợp mà chọn giống dê cho thích hợp. Không nhất thiết phải chọn giống dê boer để phát triển kinh tế gia đình vì có thể giống dê không thích hợp với khí hậu vùng miền của mình. Nhưng nếu có thể thì tận dụng thêm kiến thức thuần chuẩn, lai tạo giống boer tốt với các giống dê hiện có ở địa phương để phát triển đàn dê sau này tốt hơn, đem lại lợi nhuận kinh tế về sau tốt hơn. Dê Boer vẫn là giống dê được các nước trên thế giới chọn làm giống dê siêu thịt và cũng đang là hướng đi mới cho ngành chăn nuôi dê thịt tại Việt Nam.
CHỦ ĐỀ MỚI